JOHN STEINBECK

JOHN STEINBECK

JOHN STEINBECK

John Steinbeck (1902-1968) là một tiểu thuyết gia, tác giả truyện ngắn và nhà viết kịch nổi tiếng. Ông đạt Giải Nobel Văn học năm 1962 “vì những tác phẩm văn chương vừa hiện thực vừa đầy hoang tưởng, nổi bật với một sự hài hước đầy cảm thông và một cách nhìn xã hội thấu đáo.”

Ông sinh ra trong một gia đình chủ xưởng bột mì ở Salinas, California. Bố của Steinbeck là một thủ quỹ, ông thừa hưởng tình yêu sách vở từ mẹ mình là một giáo viên. Ngay từ ngày còn trẻ, Steinbeck đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ những tác phẩm như Tội ác và hình phạt (Crime and Punishment - Dostoievski) hay Thiên đường đã mất (Paradise Lost - John Milton). 

Cuộc sống thời trẻ của Steinbeck khá vất vả. Khi còn là học sinh trung học, ông đã phải tranh thủ làm thêm tại các nông trại trong những kỳ nghỉ. Từ năm 1920-1926, Steinbeck học ngành sinh vật biển tại Đại học Stanford nhưng không tốt nghiệp. Chàng sinh viên trẻ lúc này chỉ chăm chăm vào những kế hoạch trở thành nhà văn. Rất nhiều bài thơ và truyện ngắn thời kỳ đầu của ông được xuất bản tại trường đại học.

Sau một thời gian lên New York vừa lao động chân tay vừa làm phóng viên cho tờ American, Steinbeck trở về California. Tại đây, ông vừa viết sách, vừa làm tất cả những công việc nặng nhọc để kiếm sống như thợ nề, công nhân nông nghiệp… Trong thời gian làm bảo vệ cho một tòa nhà ở High Sierra, Steinbeck đã viết cuốn tiểu thuyết đầu tay của mình - Cup of Gold (Chiếc cúp vàng - 1929).

Đầu những năm 1930, Steinbeck gặp Edward Ricketts - một nhà sinh vật biển nổi tiếng. Steinbeck chịu ảnh hưởng lớn từ những quan niệm của Ricketts về sự tương trợ lẫn nhau giữa các loài sinh vật sống. Biển Cortez - cuốn tiểu thuyết viết năm 1941 - là kết quả của chuyến thám hiểm vùng vịnh California của ông và Ricketts.

Năm 1933, Steinbeck xuất bản To a god unknown (Gửi vị Thượng đế không quen biết). Đến năm 1935, ông xuất bản Tortilla Flat (Thị trấn Tortilla Flat). Năm 1936, Steinbeck hoàn thành cuốn tiểu thuyết In Dubious Battle (Trong trận chiến giằng co) kể về cuộc bãi công của 900 công nhân nông nghiệp dưới sự dẫn dắt của Jim Nolan.

Năm 1937, The Red Pony - một trong những tác phẩm xuất sắc của nhà văn ra đời. Kiệt tác Chùm nho uất hận (The Grapes of Wrath) của Steinbeck xuất bản năm 1939. Năm 1940, Steinbeck được giải thưởng National Book Award với cuốn Chùm nho uất hận. Tác phẩm này cũng nhận được thêm một giải Pulitzer danh giá khác. 

Sau Chùm nho uất hận, Steinbeck còn gặt hái được khá nhiều thành công trong sự nghiệp, song cuộc sống riêng tư của ông không mấy hạnh phúc.

Những năm về già, nhà văn dành nhiều thời gian để đi du lịch nước ngoài. Trong đó có chuyến đi đến Việt Nam để viết về chiến tranh. Khoảng 10 năm cuối đời, ông viết ít và hầu như không có thêm được tác phẩm nào có giá trị.

Steinbeck mất năm 1968 ở New York, tro cốt của ông được đưa về California và chôn cất lặng lẽ trong khu nghĩa trang của gia đình.

 

  • Các tác phẩm:
  • Cup of Gold - Chiếc cúp vàng (Tiểu thuyết, 1929)
  • The Pastures of Heaven - Đồng cỏ nhà trời (Truyện dài, 1932)
  • To a God Unknown - Gửi vị Thượng đế không quen biết (1933)
  • Tortilla Flat - Thị trấn Tortilla Flat (Tiểu thuyết, 1935)
  • In Dubious Battle - Trận đánh mạo hiểm (Tiểu thuyết, 1936)
  • In Dubious Battle - Trong trận chiến giằng co (1936)
  • The Red Pony - Chó hung Pony (Tiểu thuyết, 1937)
  • Of Mice and Men - Của chuột và người (Tiểu thuyết, 1937)
  • The Long Valley - Thung lũng dài (Tập truyện ngắn, 1938)
  • The Chrysanthemums - Những đóa hoa cúc (1938)
  • The Grapes of Wrath - Chùm nho uất hận (1939)
  • The Forgotten Village (1941)
  • Biển Cortez: Báo cáo về chuyến đi và nghiên cứu đã hoàn thành (Khảo cứu, 1941)
  • The Moon Is Down - Trăng lặn (Tiểu thuyết, 1942)
  • Bombs Away: The Story of a Bomber Team - Bom rơi xuống đất (Khảo cứu, 1942)
  • Cannery Row - Phố Cannery Row (Tiểu thuyết, 1945)
  • The Pearl - Viên ngọc trai (Tiểu thuyết, 1947)
  • The Wayward Bus - Chuyến xe định mệnh (Tiểu thuyết, 1947)
  • A Russian Journal - Nhật ký Nga (1948)
  • Burning Bright: A Play in Story Form (1950)
  • Log from the Sea of Cortez (1951)
  • Kira Zapata (Kịch, 1952)
  • East of Eden - Phía đông vườn Địa đàng (Tiểu thuyết, 1952)
  • Sweet Thursday - Ngày thứ Năm ngọt ngào (Tiểu thuyết, 1954)
  • The Short Reign of Pippin IV - Thời trị ngắn ngủi của Pippin IV (Truyện châm biếm, 1957)
  • Once There Was A War - Đã từng có một cuộc chiến tranh (Tiểu thuyết, 1958)
  • The Winter of Our Discontent - Mùa đông lo âu (Tiểu thuyết, 1961)
  • Travels with Charley: In Search of America - Du hành với chú chó Charley (Hồi ký, 1962)
  • Journal of a Novel: The East of Eden Letters (1962)
  • America and Americans - Nước Mỹ và người Mỹ (Tiểu thuyết, 1966)
  • Viva Zapata! (1975)
  • The Acts of King Arthur and His Noble Knights - Hành trạng của vua Arthur và các hiệp sĩ quý tộc (Tiểu thuyết, 1976) 

CHÙM NHO UẤT HẬN

Ấn phẩm "Chùm nho uất hận" được dịch từ nguyên tác "The Grapes of Wrath" của tác giả John Steinbeck. Sách do dịch giả Võ Lang phiên dịch, được nhà xuất bản Khai Trí ấn hành lần thứ nhất năm 1972. Ấn bản đang lưu giữ tại Quán Sách Mùa Thu đủ bộ 2 cuốn, sách có tình trạng đẹp nguyên bìa, gáy, số trang đầy đủ, lõi sách chắc chắn. Chùm nho uất hận bao gồm 30 chương, phản ánh những biến đổi sâu sắc trong nông thôn nước Mỹ khoảng những năm đầu thế kỷ 20 dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của thời đại công nghiệp hóa. Với tác phẩm này,...
0972 873 962