Nguyên Hồng (1918-1982), tên thật của ông là Nguyễn Nguyên Hồng, là một nhà văn, nhà thơ Việt Nam.
Ông sinh ngày 05/11/1918 tại phố Hàng Cau, nay thuộc phường Trần Hưng Đạo, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định. Cha ông làm cai đề lao, sau thất nghiệp, cảnh nhà sa sút, lại nghiện ngập và mắc bệnh lao, phải sống nghèo túng trong tâm trạng kẻ bất đắc chí. Mẹ ông là người ngoan đạo, tần tảo, hiền hậu, giàu đức hy sinh nhưng sống không có hạnh phúc trong gia đình nhà chồng.
Năm 12 tuổi, Nguyên Hồng mồ côi cha. Mẹ ông lén lút đi bước nữa, bà bị gia đình nhà chồng ruồng bỏ, hắt hủi, không được tự do gần gũi, chăm sóc con. Nguyên Hồng phải sống nhờ bà nội cùng cô ruột và chịu sự rẻ rúng, khinh miệt của bà. Tuổi thơ Nguyên Hồng đã trải qua những ngày tháng nhiều cay đắng và tủi cực vì đói ăn, thiếu mặc, thiếu cả tình thương.
Năm 16 tuổi, mới học hết bậc tiểu học, Nguyên Hồng đã phải thôi học, cùng mẹ ra Hải Phòng kiếm sống. Nguyên Hồng đã đi xin việc nhiều nơi, mà trước sau vẫn thất nghiệp. Dừng lại ở xóm Cấm, Hải Phòng, Nguyên Hồng sống bằng nghề dạy học tư cho con em của những người lao động nghèo.
Nguyên Hồng ham đọc sách từ nhỏ. Ông thường dành tiền thuê sách để đọc và dường như đọc hết những quyển sách mình thích ở cửa hàng cho thuê sách tại Nam Định. Loại sách Nguyên Hồng thích thuở nhỏ là truyện lịch sử Trung Hoa, trong đó những nhân vật có khí phách ngang tàng, trung dũng, những hảo hán chiếm cảm tình của ông nhiều nhất.
Nguyên Hồng bắt đầu viết văn từ năm 1936 với truyện ngắn "Linh Hồn" đăng trên Tiểu thuyết thứ 7. Đến năm 1937, ông thực sự gây được tiếng vang trên văn đàn với tiểu thuyết "Bỉ Vỏ". Tiểu thuyết "Bỉ vỏ" là bức tranh xã hội sinh động về thân phận những "con người nhỏ bé dưới đáy" như Tám Bính, Năm Sài Gòn...
Nguyên Hồng tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ (1936-1939) ở Hải Phòng. Tháng 9 năm 1939, ông bị mật thám bắt và bị đưa đi trại tập trung ở Bắc Mê (Hà Giang) năm 1940. Năm 1943, Nguyên Hồng tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc bí mật cùng với Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng... Ông là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ông là hội viên sáng lập Hội nhà văn Việt Nam năm 1957.
Cuốn tiểu thuyết cuối cùng của ông là "Núi rừng Yên Thế" được viết năm 1980. Cuốn này đang viết dở thì ông đột ngột qua đời trước khi nó hoàn thành.
Nguyên Hồng qua đời ngày 02/05/1982 tại Tân Yên (Bắc Giang). Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).
- Các tác phẩm:
- Linh hồn (truyện ngắn, 1936)
- Bỉ vỏ (tiểu thuyết, 1938)
- Bảy Hựu (truyện ngắn, 1941)
- Những ngày thơ ấu (hồi ký, đăng báo lần đầu năm 1938, xuất bản năm 1940)
- Qua những màn tối (truyện, 1942)
- Cuộc sống (tiểu thuyết, 1942)
- Quán nải (tiểu thuyết, 1943)
- Đàn chim non (tiểu thuyết, 1943)
- Hơi thở tàn (tiểu thuyết, 1943)
- Hai dòng sữa (truyện ngắn, 1943)
- Vực thẳm (truyện vừa, 1944)
- Miếng bánh (truyện ngắn, 1945)
- Ngọn lửa (truyện vừa, 1945)
- Địa ngục và lò lửa (truyện ngắn, 1946-1961)
- Đất nước yêu dấu (ký, 1949)
- Đêm giải phóng (truyện vừa, 1951)
- Dưới chân cầu Mây (tập truyện ngắn, 1951)
- Giữ thóc (truyện vừa, 1955)
- Giọt máu (truyện ngắn, 1956)
- Trời xanh (thơ, 1960)
- Sóng gầm (tiểu thuyết, 1961)
- Cửa biển (bộ tiểu thuyết 4 tập: 1961, 1967, 1973, 1976)
- Sức sống của ngòi bút (tạp văn, 1963)
- Cơn bão đã đến (tiểu thuyết, 1963)
- Bước đường viết văn của tôi (hồi ký, 1971)
- Cháu gái người mãi võ họ Hoa (truyện thiếu nhi, 1972)
- Thời kỳ đen tối (tiểu thuyết, 1973)
- Một tuổi thơ văn (hồi ký, 1973)
- Sông núi quê hương (thơ, 1973)
- Khi đứa con ra đời (tiểu thuyết, 1976)
- Những nhân vật ấy đã sống với tôi (hồi ký, 1978)
- Thù nhà nợ nước (tập I trong bộ tiểu thuyết về Khởi nghĩa Yên Thế, 1981)
- Núi rừng Yên Thế (tập II trong bộ tiểu thuyết về Khởi nghĩa Yên Thế, 1993)
- Tuyển tập Nguyên Hồng (3 tập Tập I: 1983, Tập II: 1984, Tập III: 1985)