Đông Hồ (1906-1969) tên thật là Lâm Tấn Phác, tự Trác Chi, hiệu Đông Hồ và Hoà Bích. Ông có các bút hiệu khác như Thủy Cổ Nguyệt, Đại Ẩn Am, Nhị Liễu Tiên Sinh. Ông được đánh giá là một nhà giáo, nhà thơ, chuyên gia nghiên cứu tiếng Việt và là một người nhiệt tình với văn hóa dân tộc Việt Nam. Ông là thành viên của nhóm “Hà Tiên tứ tuyệt” gồm: Đông Hồ, Mộng Tuyết (cũng là vợ của ông), Lư Khê và Trúc Hà.
Đông Hồ sinh tại làng Mỹ Đức, tỉnh Hà Tiên, nay thuộc tỉnh Kiên Giang. Thuở nhỏ ông vốn tên là Kỳ Phác, sớm mồ côi cha mẹ, nhờ bác ruột là Lâm Hữu Lân nuôi dạy và đặt tiểu tự cho ông là Quốc Tỉ, tự là Trác Chi. Nhà ông, tổ tiên truyền mấy đời, đều ở ven Đông Hồ ấn nguyệt, là một thắng cảnh trong Hà Tiên Thập Cảnh, nên khi bắt đầu biết làm thơ ông đã lấy hiệu Đông Hồ.
Theo tâm sự của Đông Hồ, chính Nam Phong tạp chí đã đánh thức nơi ông niềm say mê với quốc văn, quốc ngữ.
Từ năm 1926 – 1934, ông lập Trí Đức học xá trên bờ Đông hồ, chủ trương chuyên dạy toàn tiếng Việt, cổ động người Việt tin tưởng ở tương lai Việt ngữ. Thời kỳ này ông cộng tác với Nam Phong tạp chí do Phạm Quỳnh chủ trương đến khi báo đình bản (1935).
Năm 1935, ông cho xuất bản tuần báo Sống ở Sài Gòn nhưng chỉ ra được vài chục số thì ngưng lại vì không tự túc nổi. Ông về lại Hà Tiên sống và chuyên nghiên cứu văn học miền Nam.
Năm 1945, ông tham gia kháng chiến chống Pháp một thời gian nhưng vì sức khỏe yếu nên ông rời Hà Tiên để lên Sài Gòn.
Ông sáng lập NXB Bốn phương và Nhà sách Yiễm Yiễm thư trang vào năm 1950.
Năm 1953, ông cho xuất bản tập san Nhân Loại để yểm trợ cho nhà xuất bản và nhà sách nêu trên cho đến giữa năm 1964 mới ngưng hoạt động.
Năm 1964, ông ở ẩn tại Quỳnh Lâm thư thất thuộc ngoại ô Sài Gòn. Những năm về sau, ông vừa làm văn vừa làm thơ, thường viết về văn học, về lịch sử; đăng ở các tạp chí xuất bản ở Sài Gòn như Văn Hóa nguyệt san, Bách Khoa, Văn…
Năm 1965, ông được mời phụ trách môn Văn học miền Nam tại trường Đại học Văn khoa Sài Gòn.
Ông mất ngày 25/03/1969 (tức 8 tháng 2 năm Kỷ Dậu) lúc đang đứng trên bục giảng cho sinh viên bài thơ “Trưng Nữ Vương” của nữ sĩ Ngân Giang.
- Các tác phẩm:
- Thơ Đông Hồ (Văn Học Tùng Thư, Nam Ký Thư Quán, Hà Nội xuất bản, 1932)
- Lời Hoa (Trí Đức Học Xá, Hà Tiên xuất bản, 1934)
- Linh Phượng (Nam Ký Thư Quán, Hà Nội xuất bản, 1934)
- Cô Gái Xuân (Vị Giang Văn Khố, Nam Định xuất bản, 1935)
- Những lỗi thường lầm trong sự học Quốc văn (Trí Đức Học Xá xuất bản, 1936)
- Hà Tiên thập cảnh (Bốn Phương xuất bản, 1960)
- Trinh Trắng (Bốn Phương xuất bản, 1961)
- Truyện Song tinh (Bốn Phương xuất bản, 1962)
- Chi lan đào lý (1965)
- Năm ba điều nghĩ về Truyện Kiều (1965)
- Bội lan hành (1969)
- Úc Viên thi thoại (1969)
- Đăng đàn (1969)
- Dòng Cổ Nguyệt (1969)
- Văn học miền Nam: Văn học Hà Tiên (1970)
- Thăm đảo Phú Quốc (Nam Phong, t. XXI, số 124, 1927)
- Hà Tiên Mạc thị sử (Nam Phong, t. XXV, số 143, 1929)
- Chuyện cầu tiên ở Phương thành (1932)