Trần Trọng Kim (1883-1953) là một học giả, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu sử học, văn học, tôn giáo Việt Nam, bút hiệu Lệ Thần. Ông sinh ra tại làng Kiều Lĩnh, xã Đan Phố (nay là xã Xuân Phổ), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Vợ ông Bùi Thị Tuất, em gái nhà nghiên cứu văn học Bùi Kỷ. Ông có một người con gái duy nhất là Trần Thị Diệu Chương, lấy chồng làm Chưởng lý Bộ Quốc ấn tại Sénégal. Cha ông là Trần Bá Huân (1838-1894), đã từng tham gia từ rất sớm phong trào Cần Vương do Phan Đình Phùng lãnh đạo.
Trần Trọng Kim xuất thân trong một gia đình Nho giáo, từ nhỏ ông học chữ Hán. Vào năm 1897, ông theo học tại Trường Pháp-Việt Nam Định và học chữ Pháp. Năm 1900, ông thi đỗ vào Trường Thông ngôn và đến năm 1903 thì tốt nghiệp.
Năm 1904, ông làm Thông sự ở Ninh Bình. Năm 1905, vì hiếu học nên ông qua Pháp học trường Thương mại ở Lyon. Năm 1906, nhân có Hội chợ đấu xảo tại Marseille, Pháp, ông xin làm một chân thợ khảm để được đi với Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) sang dự.
Sau hội chợ, ông xin ở lại để học thêm tại các trường ở Ardèche, Lyon rồi tiếp tục học ở Trường thuộc địa. Năm 1909, ông vào học trường Sư phạm Melun (École Normale dinstituteurs de Melun và tốt nghiệp ngày 31/07/1911 rồi về nước.
Ông lần lượt dạy Trường trung học Bảo hộ (Trường Bưởi), Trường Hậu bổ và Trường nam Sư phạm. Ông là nhà sư phạm mẫu mực, có uy tín trong xã hội, giữ nhiều chức vụ trong ngành giáo dục thời Pháp thuộc như:
- Thanh tra Tiểu học (1921)
- Trưởng ban Soạn thảo Sách Giáo khoa Tiểu học (1924), dạy Trường Sư phạm thực hành (1931)
- Giám đốc các trường nam tiểu học tại Hà Nội (1939)
Từ thập niên 1910 đến thập niên 1940, ông cũng viết nhiều sách về sư phạm và lịch sử. Ngoài ra ông còn tham gia các hoạt động xã hội. Ông là Phó trưởng ban Ban Văn học của Hội Khai trí Tiến Đức, Nghị viên Viện Dân biểu Bắc Kỳ, Trưởng ban nghiên cứu Phật học của Hội Bắc kỳ Phật giáo.
Năm 1943, một năm sau khi ông về hưu, ông bị đưa sang Chiêu Nam (Singapore). Đến năm 1945 thì được đưa về nước.
Năm 1948, ông qua Phnom Penh và sống với người con gái. Sau đó, ông lại trở về Việt Nam sống thầm lặng. Trong thời gian này ông có viết hồi ký về giai đoạn ông làm chính trị.
Ông mất tại Đà Lạt vào ngày 02/12/1953, thọ 71 tuổi.
- Các tác phẩm:
- Sơ học luận lý (1914)
- Vương Dương Minh (1914)
- Việt Nam văn phạm (Hợp soạn, 1941)
- Luân lý giáo khoa thư (1916)
- Sư phạm khoa yếu lược (1916)
- Sơ học An Nam sử lược (1917)
- Sư phạm yếu lược (1918)
- Việt Nam sử lược (1920)
- Đạo giáo (1923)
- Truyện Thúy Kiều chú giải (1925)
- Quốc văn giáo khoa thư (1926)
- 47 điều giáo hóa triều Lê (có bản dịch ra tiếng Pháp- 1928)
- Nho giáo (3 tập từ 1930-1932)
- Vương Dương Minh (1934)
- Phật giáo thuở xưa và Phật giáo ngày nay (1938)
- Phật Lục (1940)
- Việt Thi (1930)
- Quan niệm về nhân sinh, Vũ trụ đại quan (1943)
- Quốc văn giáo khoa thư, 3 tập: lớp Đồng ấu, Dự bị, và Sơ đẳng (soạn cùng Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận; Nam Sơn Nguyễn Văn Thọ vẽ)
- Việt Nam văn phạm (cùng Bùi Kỷ, Nguyễn Mạnh Tường) (1941)
- Một cơn gió bụi (1949)
- Tiểu học Việt Nam văn phạm
- Hạnh thục ca
- Đường thi
- Lăng ca kinh (1964)