Nguyễn Tường Tam (1906-1963) là một nhà văn, nhà báo với các bút danh: Nhất Linh, Tam Linh, Bảo Sơn, Lãng du, Tân Việt, Đông Sơn (khi vẽ); và cũng là chính trị gia nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỷ 20.
Ông sinh ra tại phố huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Nguyên quán của ông là làng Cẩm Phô, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ông nội Nguyễn Tường Tam là Nguyễn Tường Tiếp, làm tri huyện Cẩm Giàng, gọi là Huyện Giám.
Gia đình Nguyễn Tường Tam sống ở Cẩm Giàng. Cha ông mất sớm, cả nhà lâm vào cảnh khó khăn. Thuở nhỏ, Nguyễn Tường Tam theo học tiểu học ở Cẩm Giàng, học trung học tại trường Bưởi ở Hà Nội. Năm 16 tuổi, Nguyễn Tường Tam làm thơ đăng báo Trung Bắc Tân Văn, và năm 18 tuổi ông có bài “Bình Luận Văn Chương về Truyện Kiều” đăng trên Nam Phong tạp chí.
Cuối năm 1923, ông đậu bằng Cao tiểu nhưng vì chưa đến tuổi vào trường cao đẳng nên ông làm thư ký ở sở tài chính Hà Nội. Ông làm quen với Tú Mỡ và viết cho tờ Nho Phong. Thời gian đó, ông lập gia đình với bà Phạm Thị Nguyên.
Năm 1924, ông tiếp tục học ngành Y và Mỹ thuật, nhưng chỉ một năm rồi bỏ. Năm 1926, Nguyễn Tường Tam vào Nam, gặp Trần Huy Liệu và Vũ Đình Di, định cùng làm báo. Sau này ông phải trốn sang Cao Miên, sống bằng nghề vẽ và tìm đường đi du học.
Năm 1927, Nguyễn Tường Tam sang Pháp du học. Ở nơi ấy, ông vừa học khoa học, vừa nghiên cứu về nghề báo và nghề xuất bản. Năm 1930, ông đậu bằng Cử nhân Khoa học Giáo khoa (Lý, Hóa) và trở về nước trong năm đó.
Trở về nước, Nguyễn Tường Tam xin ra tờ báo trào phúng “Tiếng cười”, nhưng lần nào hỏi thăm đều nghe là “chờ xét”. Trong thời gian chờ đợi giấy phép ra báo, ông xin dạy học tại trường tư thục Thăng Long. Ở đó ông quen biết với thầy giáo dạy Việt văn là Trần Khánh Giư (tức Khái Hưng).
Năm 1932, Nguyễn Tường Tam mua lại tờ tuần báo Phong Hóa của Phạm Hữu Ninh và Nguyễn Xuân Mai, và trở thành Giám đốc kể từ số 14, ra ngày 22/09/1932. Trong năm ấy, ông và các cộng sự quyết định thành lập Tự Lực văn đoàn. Về sau, văn đoàn chính thức tuyên bố thành lập ngày 02/03/1934 (báo Phong Hóa số 87).
Tháng 6 năm 1935, báo Phong Hóa bị đóng cửa ba tháng. Sau đó ra tiếp được hơn một năm, thì bị đóng cửa vĩnh viễn (số cuối 190 ra ngày 05/06/1936). Tháng 12/1936, trên báo Ngày Nay, Nguyễn Tường Tam cùng nhóm Tự Lực văn đoàn phát động phong trào Ánh Sáng, một tổ chức từ thiện với mục đích cải tạo nếp sống ở thôn quê, trong đó có việc làm nhà hợp vệ sinh cho dân nghèo...
Năm 1938, Nguyễn Tường Tam thành lập Đảng Hưng Việt, rồi đổi tên là Đại Việt Dân chính Đảng năm 1939 mà ông làm Tổng Thư ký.
Năm 1951, ông từ Hồng Kông về nước, mở nhà xuất bản Phượng Giang, tái bản sách của Tự Lực văn đoàn. Năm 1953, Nguyễn Tường Tam lên sống tại Đà Lạt, sống với hoa lan ven suối Ða Mê. Năm 1958, ông rời Đà Lạt về Sài Gòn và mở giai phẩm Văn hóa Ngày Nay ở Sài Gòn, phát hành được 11 số thì bị đình bản. Sau, ông bị giam lỏng tại nhà riêng.
Đêm 07/07/1963, ông đã quyên sinh bằng rượu pha độc dược.
- Các tác phẩm:
- Tiểu thuyết:
- Gánh hàng hoa (cùng Khái Hưng, 1934)
- Đời mưa gió (cùng Khái Hưng, 1934)
- Nắng thu (1934)
- Đoạn tuyệt (1934-1935)
- Lạnh lùng (1935-1936)
- Đôi bạn (1936-1937)
- Bướm trắng (1938-1939)
- Con đường sáng (cùng Hoàng Đạo, 1940)
- Xóm cầu mới (1949-1957)
- Giòng sông Thanh Thủy (1960-1961). Trường thiên gồm ba tập: Ba người bộ hành (1960), Chi bộ hai người (1960), Vọng quốc (1961)
- Tập truyện:
- Nho phong (1924)
- Người quay tơ (1926)
- Anh phải sống (cùng Khái Hưng, 1932-1933)
- Đi Tây (1935)
- Tối tăm (1936)
- Hai buổi chiều vàng (1934-1937)
- Thế rồi một buổi chiều (1934-1937)
- Thương chồng (1961), 6 truyện
- Những ngày diễm áo (1973)
- Tiểu luận:
- Viết và đọc tiểu thuyết (1952-1961)
- Dịch phẩm:
- Đỉnh gió hú của Emily Bronte (đăng báo 1960, xuất bản 1974)
- Di cảo:
- Đời làm báo
- Hội họa:
- Scène de Marché de rue Indochinois (Cảnh Phố Chợ Đông Dương) vẽ trên lụa thực hiện khoảng 1926-1929