William Cuthbert Faulkner (25/09/1897 – 06/07/1962) là một tiểu thuyết gia người Mỹ. Đoạt Giải Nobel Văn học năm 1949, và hai giải Pulitzer cho tác phẩm hư cấu năm 1955 và 1963, ông là một trong những nhà văn quan trọng nhất thế kỷ 20.
William Faulkner tên thật là William Falkner (không có chữ u). Một người biên tập đã nhầm họ của ông thành Faulkner, từ đó ông lấy William Faulkner làm bút danh của mình.
William Faulkner là con cả trong một gia đình danh giá sa sút. Thời niên thiếu học hành chật vật, năm 17 tuổi bỏ học vào làm việc trong ngân hàng của ông nội. Năm 1918 W. Faulkner muốn tình nguyện vào quân đội nhưng không được nhận vì vóc người quá nhỏ bé. Về sau ông ghi tên vào học viện không quân ở Toronto, Canada.
Mấy tháng sau khi Thế chiến I kết thúc, W. Faulkner vào học ban ngôn ngữ châu Âu tại trường Đại học Tổng hợp Oxford (bang Mississippi); một năm sau ông bỏ học.
Faulkner làm người bán hàng trong một hiệu sách ở New York trước khi trở thành nhân viên bưu cục tại trường đại học cũ của mình, nhưng rồi bị đuổi việc vì ham đọc sách trong giờ làm. Năm 1929, Sartoris – cuốn đầu tiên trong số 15 tiểu thuyết viết về miền đất tưởng tượng Yoknapatawpha – bước đầu mang lại danh tiếng cho ông.
Trong thời gian này người phụ nữ mà ông yêu từ thuở nhỏ đã ly dị chồng, hai người cưới nhau và có hai con.
Mưu sinh là một vấn đề khốn khó của W. Faulkner. Tác phẩm Âm thanh và cuồng nộ của ông được giới phê bình đánh giá cao, thậm chí được đồng thanh gọi là “cuốn sách vĩ đại”, nhưng rất khó bán. Để kiếm tiền, trong vòng 3 tuần lễ W. Faulkner viết xong Giáo đường (1931) kể chuyện cô gái trẻ bị một tên cướp cưỡng hiếp, sau phải vào nhà chứa.
W. Faulkner còn viết nhiều kịch và truyện ngắn. Nhiều tác phẩm của ông được dịch ra tiếng Pháp và được giới văn chương châu Âu đánh giá rất cao (Faulkner là Chúa trời! – J.P Sartre nói). Năm 1949 ông được trao giải Nobel.
Không lâu sau khi cuốn tiểu thuyết Bọn đạo chích (1962) ra đời, W. Faulkner bị ngã ngựa trong một chuyến đi chơi. Ba tuần sau ông qua đời vì nhồi máu cơ tim ở tuổi 64.
Vinh quang của W. Faulkner tiếp tục tỏa sáng sau khi ông mất, sách của ông, đặc biệt là Âm thanh và cuồng nộ, được dịch ra nhiều thứ tiếng, trong đó có tiếng Việt.
- Các tác phẩm:
- Marionettes (Những con rối, 1921), kịch một hồi
- Vision in Spring (1921), tập thơ
- The Marble Faun (Thần điền dã cẩm thạch, 1924), tập thơ
- Soldiers Pay (Lương lính, 1926), tiểu thuyết
- Mosquitoes (Muỗi, 1927), tiểu thuyết
- Sartoris (1929), tiểu thuyết
- The Sound and the Fury (Âm thanh và cuồng nộ, 1929), tiểu thuyết
- As I Lay Dying (Khi tôi nằm chết, 1930), tiểu thuyết
- Sanctuary (Giáo đường, 1931), tiểu thuyết
- Light in August (Nắng tháng Tám, 1932), tiểu thuyết
- War Birds (Cuộc chiến giữa các chú chim, 1933), kịch
- Louisiana Lou (1933), kịch
- Pylon (1935), truyện
- The Road to Glory (Đường tới vinh quang, 1936), kịch bản phim
- Absalom, Absalom! (1936), tiểu thuyết
- The Unvanquished (Bất khuất, 1938), tiểu thuyết
- The Wild Palms (Cọ hoang, 1939), tiểu thuyết
- If I Forget Thee Jerusalem (1939), tiểu thuyết
- The Hamlet (Xóm nhỏ, 1940), tiểu thuyết
- The De Gaulle Story (1942), kịch
- Go Down, Moses (1942), tiểu thuyết
- Battle Cry (1943), kịch
- To Have and Have Not (Có và không có, 1944), kịch bản phim
- Stallion Road (1945), kịch
- The Big Sleep (Giấc mơ vĩnh cửu, 1946), kịch bản phim
- Intruder in the Dust (Kẻ tiếm quyền, 1948), tiểu thuyết
- Collected Stories of William Faulkner (Tuyển tập truyện ngắn của William Faulkner, 1950), tập truyện ngắn, 42 truyện
- Requiem for a Nun (Kinh cầu cho một nữ tu, 1951), tiểu thuyết
- A Fable (Dụ ngôn, 1954), tiểu thuyết
- The Town (Thị trấn, 1957), tiểu thuyết
- The Mansion (Lãnh địa, 1959), tiểu thuyết
- The Reivers (Bọn đạo chích, 1962), tiểu thuyết
- A Green Bough (1965), tập thơ
- Flags in the Dust (1973), tiểu thuyết
- Helen, a Courtship and Mississippi Poems (1981), tập thơ