Phùng Tất Đắc (1907-2008), bút hiệu Lãng Nhân, Cố Nhi Tân và Tị Tân; là một nhà thơ, nhà văn Việt Nam.
Ông sinh ra và trải qua thời thơ ấu tại Hà Nội. Lớn lên, Phùng Tất Đắc theo học trường Bưởi. Trong năm học thứ ba của ông, nhà trường quyết định đuổi học một số học sinh, trong đó có Phùng Tất Đắc và một người bạn ông sau này cũng trở thành nhà văn là Lê Văn Trương.
Lê Văn Trương sang Lào tìm vàng và viết tiểu thuyết phiêu lưu. Phùng Tất Đắc cũng theo bạn định trốn đi ngoại quốc, nhưng bị ông cụ thân sinh gọi về Nam Định, bắt lấy vợ. Là con trưởng, ông phải tuân theo lời cha và lấy vợ năm mới 17 tuổi (1924). Nhưng rồi cuộc hôn nhân này không bền và hai người đã xa nhau sau khi có một cô con gái. Năm 1945, bà vợ này và người con gái qua đời vì bạo bệnh.
Năm 1929, Phùng Tất Đắc mang 4.000 đồng tiền lên Hà Nội cùng với ông Hoàng Tích Chu, Phùng Bảo Thạch và Tạ Đình Bính xuất bản tờ báo Đông Tây đặt trụ sở ở số nhà 12, phố Nhà thờ, Hà Nội. Lúc đầu, tờ Đông Tây chỉ có hai người viết là Hoàng Tích Chu (ký bút hiệu Văn Tôi) và Phùng Tất Đắc.
Tuy nhiên, cuối năm 1932, Đông Tây bị thu hồi giấy phép với tội danh "Vu khống người nhà nước". Số cuối cùng của Đông Tây là ngày 25/07/1932. Phùng Tất Đắc cùng vài người bạn khác lại sang làm cho tuần báo Duy tân, nhưng tờ báo này cũng yểu mệnh sau khi ra được 22 số.
Sau đó một thời gian chừng ba, bốn năm, Phùng Tất Đắc đi giang hồ vào miền Trung. Ông lần lượt đặt chân đến Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, rồi vào cả miền Nam. Trong giai đoạn này, có lúc ông làm thư ký cho luật sư Dương Văn Giáo ở Quy Nhơn, có hồi vào Sài Gòn viết báo, trong đó có báo do ông Diệp Văn Kỳ làm Chủ bút.
Năm 1935, Phùng Tất Đắc quay về Nam Định và lấy vợ lần nữa. Bà vợ hai của ông làm nghề buôn sợi nên gia đình rất khá giả. Nhờ thế, ông có một cuộc sống khá phong lưu, từng được dân Nam Định gọi là "công tử thành Nam".
Năm 1940, Phùng Tất Đắc ra ứng cử chức nghị viên trong Bắc Kỳ nghị viện và giữ chức này cho tới khi xảy ra cuộc đảo chính của quân đội Đế quốc Nhật Bản vào tháng 03 năm 1945. Phùng Tất Đắc bị quân Nhật bắt giữ và tra tấn. Ông may mắn được một đại tá người Nhật cứu ra rồi đến lánh nạn ở nhà ông Trần Trọng Kim, lúc bấy giờ là thủ tướng chính phủ Đế quốc Việt Nam.
Sau CMT8, ông đi tản cư được một năm thì lại đem gia đình trở về Hà Nội.
Năm 1954, ông đưa gia đình di cư vào Nam đến Sài Gòn rồi được một người bạn là ông Phan Cao Phái nhờ trông coi nhà in Taupin do Pháp để lại; cơ sở này là hậu thân của nhà in lớn IFOM (Imprimerie Française d'Outremer) thời Pháp thuộc để trở thành Kim Lai ấn quán.
Thời gian từ 1954 đến 1975, Phùng Tất Đắc phụ trách nhà in Kim Lai và các nhà xuất bản Nam Chi Tùng Thư, in sách của chính ông và một số thân hữu như Đoàn Thêm, Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Tạ Tỵ... Tên tuổi ông được biết đến nhiều nhất là qua các tác phẩm biên soạn vào thập niên 1960 như Giai thoại làng Nho, Chơi chữ, và Hương sắc quê mình.
Năm 1975, ông sang tị nạn tại Cambridge, Anh và mất ngày 29/02/2008.
- Các tác phẩm:
- Trước đèn (1939)
- Chuyện vô lý (1942)
- Chơi chữ (1960)
- Cáo tồn (1963)
- Giai thoại làng Nho (1963)
- Hán Văn tinh túy (1965)
- Thơ Pháp ngữ tuyển dịch (1968)
- Chuyện cà kê (1968)
- Khổng Tử (1968)
- Tư Mã Quang, Vương An Thạch (1968)
- Nguyễn Thái Học (1969)
- Tôn Thất Thuyết (1969)
- Nghiêm Phục (1970)
- Hương sắc quê mình
- Nhớ nơi kỳ ngộ