Nguyễn Trãi (1380-1442), hiệu là Ức Trai, là một nhà chính trị, nhà văn, nhà địa lý học và nhà ngoại giao được UNESCO vinh danh là “Danh nhân văn hóa thế giới”.
Ông sinh ra ở Thăng Long trong một gia đình có ông ngoại là quan Đại tư đồ Trần Nguyên Đán. Cha ông là Nguyễn Ứng Long (tức Nguyễn Phi Khanh). Mẹ ông là Trần Thị Thái, con gái Trần Nguyên Đán. Năm Nguyễn Trãi lên 5 tuổi, mẹ ông mất. Sau đó không lâu, Trần Nguyên Đán cũng mất. Ông về ở với cha tại quê nội ở làng Nhị Khê, huyện Thượng Phúc (tức phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông) nay là huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội.
Sau khi Hồ Quý Ly lật đổ nhà Trần và lên ngôi vua thì mở khoa thi. Nguyễn Trãi ra thi, ông đỗ Thái học sinh (tiến sĩ) năm ông 20 tuổi. Hồ Quý Ly cử ông giữ chức Ngự sử đài chánh chưởng. Còn cha ông là Nguyễn Phi Khanh đỗ bảng nhãn từ năm 1374, được Hồ Quý Ly cử giữ chức Đại lý tự khanh Thị lang tòa trung thư kiêm Hàn lâm Viện học sĩ tư nghiệp Quốc Tử Giám.
Năm 1406, Minh Thành Tổ sai Trương Phụ mang quân sang xâm lược Việt Nam. Nhà Hồ đem quân ra chống cự, nhưng bị đánh bại. Cha con Hồ Quý Ly và một số triều thần trong đó có Nguyễn Phi Khanh bị bắt và bị đưa về Trung Quốc. Nghe tin cha bị bắt, Nguyễn Trãi cùng em là Nguyễn Phi Hùng khóc theo lên tận cửa Nam Quan với ý định sang bên kia biên giới để hầu hạ cha già trong lúc bị cầm tù.
Nghe lời cha khuyên, Nguyễn Trãi quay trở lại tìm con đường đánh giặc, cứu nước. Về đến Thăng Long, ông bị quân Minh bắt. Thượng thư nhà Minh là Hoàng Phúc biết Nguyễn Trãi là một nhân vật có tài, tìm cách dụ dỗ, nhưng ông kiên quyết không theo giặc.
Sau một thời gian bị giam lỏng ở Đông Quan (tức Thăng Long), Nguyễn Trãi vượt được vòng vây của giặc vào Thanh Hóa để theo Lê Lợi. Ông gặp vị thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn ở Lỗi Giang. Ông trao cho Lê Lợi bản chiến lược đánh đuổi quân Minh mà sử sách Việt Nam gọi là Bình Ngô sách. Từ đây, Lê Lợi thường giữ Nguyễn Trãi gần bên mình để cùng bàn mưu tính kế đánh quân Minh.
Sau khi đã đánh đuổi ngoại xâm về Tàu, Nguyễn Trãi được phong tước Quan phục hầu, liệt vào hạng khai quốc công thần đệ nhất. Triều vua Lê Thái Tông, ông làm Nhập nội hành khiển (tức Tể tướng). Năm 60 tuổi thì về trí sĩ tại Côn Sơn (thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương). Ba năm sau, kì án Lệ chi viên xảy ra, gia đình Nguyễn Trãi gặp họa. Năm 1442, cả gia đình ông bị tru di tam tộc khiến cho người đương thời vô cùng thương tiếc.
Năm 1464, vua Lê Thánh Tông hạ chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng quan tước và tìm hỏi con cháu còn sót lại.
- Các tác phẩm:
- Văn chính luận:
- Quân trung từ mệnh tập
- Bình Ngô đại cáo
- Một số bài chiếu, biểu viết dưới thời Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông.
- Lịch sử:
- Lam Sơn thực lục (1432)
- Vĩnh Lăng thần đạo bi (1433)
- Địa lý:
- Dư địa chí (1435)
- Thơ phú:
- Ức Trai thi tập (thơ chữ Hán, 105 bài thơ)
- Quốc Âm thi tập (thơ chữ Nôm, 254 bài thơ)
- Chí Linh sơn phú (bài phú chữ Hán)
- Băng Hồ di sự lục (tản văn chữ Hán, 1428)
- Luật thơ (6 quyển, nay không còn)