Nguyễn Duy Cần (1907-1998), hiệu Thu Giang, là một học giả, nhà văn, nhà biên khảo và trước tác kỳ cựu vào bậc nhất Việt Nam giữa thế kỷ 20.
Ông làm nghề viết sách, dạy học, lương y, nghiên cứu Đạo học, Kinh Dịch, với các biệt hiệu: Thu Giang, Hoàng Hạc, Bảo Quang Tử, Linh Chi… Ông sống cùng thời với các học giả và nhà văn như: Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi, Hoàng Xuân Việt, Phạm Cao Tùng…
Ông nổi bật không chỉ về số lượng tác phẩm đồ sộ mà còn ở độ sâu học thuật và sức ảnh hưởng về mặt tư tưởng đến các tầng lớp thanh niên trí thức của ông.
Ông sinh ngày 15/07/1907 tại làng Điều Hoà, tổng Thuận Trị, quận Châu Thành, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang).
Sự nghiệp nghiên cứu và trước tác của ông bắt đầu từ năm 1931 với việc xuất bản quyển Triết học đầu tiên “Toàn chân”, gây nên một cuộc bút chiến sôi nổi trên báo Mai. Trong những năm sau đó, ông tiếp tục cho xuất bản các tác phẩm khá đều đặn. Năm 1935, ông cho ra đời quyển “Duy tâm và duy vật”. Năm 1937, ông tham gia xuất bản nguyệt san “Nay”. Năm 1941, ông làm chủ bút báo Tiến và năm 1944, chủ bút báo Thanh niên, sau đó còn làm chủ bút báo Tự do.
Sau khi Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất nổ ra, năm 1946, ông lánh nạn lên Sài Gòn, ở ẩn để tiếp tục viết sách. Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh, việc xuất bản các tác phẩm của ông bị gián đoạn mãi đến năm 1951 mới bắt đầu trở lại với tác phẩm “Cái dũng của Thánh nhân”. Từ đó về sau ông tiếp tục cho xuất bản các tác phẩm khá đều đặn cho đến tận năm 1975. Ngoài việc trước tác và tham gia viết báo, ông từng làm việc tại Ủy ban điển chế văn tự (trực thuộc Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa), là giáo sư của trường Đại học Vạn Hạnh và là Trưởng ban Triết học phương Đông của Đại học Văn khoa Sài Gòn (nay là trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn).
Từ năm 1975 đến cuối đời ông rất ít giao tiếp với bên ngoài nhưng vẫn âm thầm viết. Năm 1991, ông chuyển về sống ở quận Bình Thạnh và mất tại đây vào năm 1998, để lại cho đời nhiều bộ sách có giá trị.
Nguyễn Duy Cần không có bằng cấp cao, ông chỉ tốt nghiệp bằng Thành chung (học hết lớp 9, tương đương tốt nghiệp cấp 2 bây giờ), nhưng nhờ được cha dạy dỗ cùng với công tự học của mình mà ông trở thành giáo sư của những trường đại học danh tiếng thời bấy giờ.
- Các tác phẩm:
- Duy tâm và duy vật (1935)
- Toàn chân (triết luận) (1936)
- Thanh dạ Văn chung (1939)
- Cổ nhân (1940)
- Thuật tư tưởng (1940)
- Cái dũng của Thánh nhân (1951)
- Óc sáng suốt (1952)
- Thuật tư tưởng (1953)
- Thuật xử thế của người xưa (1954)
- Trang Tử tinh hoa (1956)
- Lão Tử tinh hoa (1963)
- Văn minh Tây phương và Đông phương (1957)
- Tôi tự học (1959)
- Thuật Yêu đương (1961)
- Lão Tử Đạo đức Kinh (1960) (dịch với lời bình và nguyên văn đối chiếu)
- Một nghệ thuật sống (1960)
- Cái cười của Thánh nhân (1970)
- Tinh hoa Đạo học Đông phương (1972)
- Phật học tinh hoa (1965)
- Nhập môn Triết học Đông phương (1971)
- Văn hóa Giáo dục miền Nam Việt Nam (1970)
- Trang Tử Nam hoa kinh (1963) (dịch với lời bình và nguyên văn đối chiếu).
- Dịch học tinh hoa (1973)
- Để trở thành nhà văn (1968)
- Chu Dịch huyền giải (1975)
- Dịch Kinh tường giải (2014)
- Tử vi bí kíp
- Thiền đạo Tinh Hoa
- Hà Đồ Lạc Thư và Dịch Tượng Luận
- Thuật dưỡng sinh theo Đạo học Đông Phương
- Đông Phương y học bí truyền