Tự Lực văn đoàn là tổ chức văn học mang tính hội đoàn, một nhóm nhà văn đã tạo nên một trường phái văn học, một phong trào cách tân văn học (và trên nhiều lĩnh vực, đồng thời là một phong trào cách tân văn hóa, cải cách xã hội) Việt Nam hiện đại, khởi đầu là một tổ chức văn bút do Nhất Linh Nguyễn Tường Tam khởi xướng vào năm 1932, nhưng đến thứ sáu ngày 2 tháng 3 năm 1934 mới chính thức trình diện (theo tuần báo Phong Hóa số 87)
Cho tới nay, Tự Lực văn đoàn được nhiều nhà nghiên cứu đánh giá là hội nhóm sáng tác văn nghệ (do tư nhân sáng lập và điều hành) có sức ảnh hưởng văn hóa sâu rộng nhất không chỉ trong thời hiện đại mà còn trong cả lịch sử văn học viết khoảng chừng một nghìn năm của Việt Nam. Trong thời kỳ hưng thịnh của Tự Lực văn đoàn, họ có thanh thế rất mạnh cả ở lĩnh vực văn chương và báo chí. Riêng trong địa hạt văn học, các cây bút văn xuôi của nhóm đã góp sức cùng nhau tạo nên cả một trường phái hoặc ở mức độ rộng hơn là phát động cả một trào lưu sáng tác văn chương nghiêng nhiều về khuynh hướng lãng mạn gắn liền với tên gọi của văn đoàn mà về sau mới có những khái niệm phổ biến trong giới nghiên cứu như “trường phái văn chương Tự Lực” hay cụ thể hơn nữa là “trường phái tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn”. Giải thưởng văn chương Tự Lực Văn Đoàn (do các thành viên chính thức của nhóm đề xuất tiêu chí trao giải, tự đứng ra tổ chức, gây quỹ, xét duyệt và trao tặng cho các cây bút sáng tác văn chương bên ngoài văn đoàn) cũng được nhiều người xem là một ý tưởng đột phá, một dấu ấn văn hóa có tầm quan trọng đối với cả tiến trình lịch sử văn học Việt Nam chứ không chỉ riêng trong thời hiện đại.
Dù thế mạnh của Tự Lực văn đoàn nghiêng hẳn về văn xuôi (đặc biệt trong tiểu thuyết và truyện ngắn)] nhưng họ cũng được xem rộng rãi là tổ chức văn chương chuyên nghiệp quan trọng nhất đương thời có vai trò đỡ đầu, bảo trợ, cổ vũ cho phong trào Thơ mới của Việt Nam ngay từ buổi đầu sơ khai tới trọn thập niên 1930. Trong danh sách thành viên của họ thường có hai tên tuổi của phong trào Thơ mới là Thế Lữ và Xuân Diệu. Tính cho tới những thập niên đầu thế kỷ 21, Tự Lực văn đoàn cũng là hội nhóm sáng tác văn chương thu hút giới nghiên cứu phê bình một cách toàn diện và sôi nổi nhất trong lịch sử văn học Việt Nam (xem chi tiết ở mục tài liệu nghiên cứu, phê bình về Tự Lực văn đoàn trong phần cuối bài viết). Bên cạnh địa hạt chính là văn chương, Tự Lực văn đoàn cũng có chỗ đứng rất nổi bật trong lịch sử báo chí - truyền thông đại chúng (thông qua hai tờ tuần báo Phong Hóa và Ngày Nay) cũng như xuất bản (thông qua An Nam xuất bản cục và nhà xuất bản Đời Nay) của Việt Nam.
Cơ cấu:
Cơ quan ngôn luận của Tự Lực văn đoàn là tuần báo Phong Hóa (kể từ số 14 ra ngày 22 tháng 9 năm 1932, số cuối 190 ra ngày 5 tháng 6 năm 1936), và từ năm 1935 thêm tuần báo Ngày nay (số đầu tiên ra ngày 30 tháng 1 năm 1935, số cuối 224 ra ngày 7 tháng 9 năm 1940). Ngoài ra, văn đoàn còn có nhà xuất bản Đời Nay để tự xuất bản sách của mình.
Trụ sở chính của văn đoàn đặt ở nhà số 80 phố Quán Thánh, Hà Nội. Đây vừa là tòa soạn báo Phong Hóa, Ngày Nay; vừa là trụ sở nhà xuất bản Đời Nay. Ban đầu, bút nhóm chỉ có 6 thành viên, gồm:
- – Nguyễn Tường Tam (Nhất Linh), là Trưởng văn đoàn và cũng là Giám đốc báo Phong Hóa.
- – Khái Hưng
- – Hoàng Đạo
- – Thế Lữ
- – Thạch Lam
- – Tú Mỡ
Về sau, kết nạp thêm Xuân Diệu.
Bên cạnh đó còn có những cộng sự viên khác (không ở trong tòa soạn báo Phong Hóa và Tự Lực văn đoàn), gồm:
- Các nhà văn, nhà thơ: Huy Cận, Trọng Lang, Đoàn Phú Tứ, Đỗ Đức Thu, Trần Tiêu, Thanh Tịnh, Phạm Cao Củng, Nguyễn Khắc Hiếu, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Đinh Hùng, Nguyễn Công Hoan, Vi Huyền Đắc, Nguyễn Tường Bách (1916–2013),...
- Các họa sĩ: Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Cát Tường, Lê Minh Đức (tạo ra nhân vật Xã Xệ),..
Một số văn nghệ sĩ kể trên, về sau đều thành danh, ít nhiều là nhờ người đứng đầu văn đoàn là Nguyễn Tường Tam. Theo GS. Nguyễn Huệ Chi, thì người đứng đầu ấy vốn là người có tài, có tâm và có tầm nhìn, biết đoàn kết cả nhóm trong một ý hướng chung, lại biết khơi gợi đúng thiên hướng của từng người mỗi tác giả trở thành một cây bút chuyên biệt nổi danh về một thể loại. Như Khái Hưng được ông khuyến khích chuyển từ lối viết luận thuyết trên các báo Văn học tạp chí, Duy tân (dưới bút danh Bán Than) sang viết tiểu thuyết; Tú Mỡ được ông gợi ý chuyên làm thơ trào phúng; Trọng Lang được ông cổ vũ đi hẳn vào phóng sự; còn Thế Lữ dưới con mắt Nguyễn Tường Tam phải là người mở đầu cho "thơ mới",
Thành tựu:
Ấn phẩm:
Khá nhiều tác phẩm của văn đoàn đã gây được tiếng vang, ở đây chỉ nêu ra một số như:
- Hồn bướm mơ tiên xuất bản ngày 27 tháng 5 năm 1933. Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tay của Khái Hưng và cũng là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của văn đoàn.[76]
- Nửa chừng xuân (tiểu thuyết, 1934) của Khái Hưng.
- Thừa tự (tiểu thuyết, 1938) của Khái Hưng.
- Đoạn tuyệt (tiểu thuyết, 1934), Lạnh lùng (tiểu thuyết, 1936), Đôi bạn (tiểu thuyết, 1937). Cả ba quyển đều của Nhất Linh.
- Con đường sáng (tiểu thuyết, 1940) của Hoàng Đạo.
- Mấy vần thơ (tập thơ, 1935) của Thế Lữ.
- Gió đầu mùa (tập truyện ngắn, 1937) của Thạch Lam.
- Dòng nước ngược (thơ trào phúng, 1943) của Tú Mỡ.
- Thơ thơ (tập thơ, 1938) của Xuân Diệu,...
Giải thưởng:
Không chỉ sáng tác văn học, Tự Lực văn đoàn còn trao các giải thưởng cho các nhà văn không thuộc nhóm. Giải thưởng đã được xét trao cả thảy ba lần: 1935, 1937 và 1939. Đây là một giải thưởng uy tín, một bảo chứng danh giá cho sự nghiệp văn chương của những người đoạt giải: Ðỗ Ðức Thu, Phan Văn Dật, Vi Huyền Đắc, Nguyên Hồng, Anh Thơ, Tế Hanh... Thoạt nhìn đã có thể thấy, đây là một giải thưởng có tính phát hiện cao. Hầu hết các tác phẩm được giải là tác phẩm đầu tay, và nhiều tác phẩm trong số đó lúc ra mắt qua giải thưởng Tự lực văn đoàn, như Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, Bức tranh quê của Anh Thơ... đã thành "hiện tượng" trong đời sống văn học. Và thật thú vị, những nhà văn chủ trì Tự lực văn đoàn, vốn được coi thuộc khuynh hướng lãng mạn, lại chọn biểu dương những cây bút gần như ngược hẳn với mình, đậm chất hiện thực xã hội, nhiều khi đến gay gắt. Có thể điều này rất quan trọng: giải thưởng do đó khêu gợi và quy tụ cả một dàn đồng ca rộn rã phong phú đa dạng như chưa từng có những tài năng mới, trẻ, góp phần tạo nên "cả một thời đại mới trong văn học" như cách nói của Hoài Thanh.